EVFTA – Cam kết trong ngành dệt may và cơ hội tại thị trường Bắc Âu
Đăng ngày: 11/08/20
Trong năm 2019, Việt Nam xuất khẩu 287,17 triệu USD hàng dệt may, chiếm 1,83% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của khu vực Bắc Âu và Latvia. Do vậy, tiềm năng thị trường còn rất lớn (4/6 thị trường ở khu vực này là thành viên của EU).
Tình hình thương mại dệt may của Việt Nam năm 2019
- Kim ngạch xuất khẩu dệt may với thế giới: 32,85 tỷ USD;
- Thị phần xuất khẩu dệt may của Việt Nam trên thế giới: 6,25%, là một trong 5 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Năm 2019, đứng thứ ba sau Trung Quốc và Bangladesh;
- Tốc độ tăng trưởng lũy kế (CAGR) 2014-2019: 9,57%;
- Sản phẩm xuất khẩu chính: các sản phẩm từ bông và sợi tổng hợp cho phân khúc thị cấp trung và cấp thấp;
- Các thị trường xuất khẩu dệt may chính của Việt Nam: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc;
- Xuất khẩu dệt may sang EU28: 4,33 tỷ USD;
- Xuất khẩu dệt may sang các nước Bắc Âu và Latvia: 287,17 triệu USD.

Cam kết EVFTA về thuế quan đối với dệt may
Trong EVFTA, EU cam kết dành ưu đãi thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam như sau:
- Loại bỏ ngay 42,5% số dòng thuế nhập khẩu, có thuế suất cơ sở từ 8-12%, ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng này chủ yếu là nguyên phụ liệu dệt may (thuộc các Chương 50-59), các loại hàng dệt kim và móc Chương 60), và một số ít loại trong các nhóm sản phẩm may mặc thuộc Chương 61-63 (như bộ đồ vest hoàn chỉnh, đồ ngủ nữ, áo len trẻ em, đồ bơi, chăn, rèm cửa, túi xách hoặc túi đựng bằng vải…);
- Các sản phẩm còn lại loại bỏ thuế nhập khẩu dần từ mức thuế MFN trung bình là 12% hiện nay xuống 0% trong thời hạn từ 3 đến 7 năm kể từ ngày EVFTA có hiệu lực. Phần lớn là các sản phẩm may mặc và sản phẩm tương tự thuộc các Chương 61, 62, 63.
Lộ trình cam kết giảm thuế cho một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU
| HS | Mô tả | GSP(%) | Lộ trình EVFTA | |
| 6201 | Áo khoác ngoài, áo choàng cho nam giới hoặc trẻ em trai | 9,6 | B7 | |
| Trừ 6201.93 | Loại khác – Từ sợi nhân tạo | B5 | ||
| 6204 | Bộ com-lê, bộ quần áo đồng bộ, áo jacket, blazer cho phụ nữ hoặc trẻ em gái | 9,6 | Đa số A | |
| Trừ 6204.13 | Bộ com lê từ sợi tổng hợp | B5 | ||
| 6204.32/33 | Áo jacket/blazer từ bông/sợi tổng hợp | |||
| 6204.39 | Áo jacket/blazer từ các vật liệu dệt khác | B3 | ||
| 6203 | Bộ com-lê, bộ quần áo đồng bộ, áo jacket, blazer cho nam giới hoặc trẻ em trai | 9,6 | Đa số B5 | |
| Trừ 6203.19 | Bộ com lê từ bông/ xơ tái tạo/ vật liệu dệt khác | A | ||
| 6203.31 | Áo jacket/ blazer từ len | |||
| 6203.49 | Quần từ xơ tái tạo | B3 | ||
| 6203.11/12 | Bộ com lê từ len/ sợi tổng hợp | B7 | ||
| 6202 | Áo khoác ngoài, áo choàng cho phụ nữ hoặc trẻ em gái | 9,6 | Đa số B7 | |
| Trừ 02.12.90/ 6202.13.90 | Từ bông/sợi nhân tạo có trọng lượng trên 1kg tính trên quần áo | B5 | ||
| 6109 | Áo phông, áo may ô và các loại áo lót khác, dệt kim hoặc móc | 9,6 | B5 | |
| 6110 | Áo bó, áo chui đầu, áo cài khuy (cardigan), gi-lê và các mặt hàng tương tự, dệt kim hoặc móc | 9,6 | B5 | |
| 6104 | Bộ com-lê, bộ quần áo đồng bộ, áo jacket, blazers cho phụ nữ hoặc trẻ em gái, dệt kim hoặc móc | 9,6 | Đa số A | |
| Trừ 6104.43 | Váy từ sợi tổng hợp | B3 | ||
| 6104.63 | Quần dài từ sợi tổng hợp | |||
| 6104.33 | Áo Jacket/blazer từ sợi tổng hợp | B5 | ||
| 6104.53 | Chân váy từ sợi tổng hợp | |||
| 6210 | Quần áo may từ các loại vải thuộc nhóm 5602, 5603, 5903, 5906 hoặc 5907 | 9,6 | B5 | |
| 6307 | Các mặt hàng đã hoàn thiện khác, kể cả mẫu cắt may | 5-9,6 | A | |
| 6205 | Áo sơ mi nam giới hoặc trẻ em trai | 9,6 | Đa số B7 | |
| Trừ 6205.20 | Từ bông | B5 | ||
Cam kết EVFTA về quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may
EVFTA quy định về các điều kiện quy tắc xuất xứ mà hàng hóa phải tuân thủ để được hưởng ưu đãi thuế quan.
Hiệp định EVFTA yêu cầu quy tắc xuất xứ “2 công đoạn” (từ vải trở đi) đối với hàng dệt may. Cụ thể, để sản phẩm may mặc được coi là có xuất xứ theo EVFTA thì:
- Vải sử dụng để tạo thành sản phẩm phải có xuất xứ Việt Nam/EU; và
- Việc cắt, may phải được thực hiện tại Việt Nam/EU.
EVFTA cho phép chia nhỏ lô hàng trong trường hợp quá trình vận chuyển hàng hóa có quá cảnh qua nước thứ ba không phải thành viên với điều kiện hàng hóa vẫn nằm dưới sự giám sát của hải quan. Đây là Hiệp định FTA thứ hai cùng với CPTPP cho phép doanh nghiệp thực hiện việc này. Quy định này rất thuận lợi cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu, họ có thể đưa các trung tâm phân phối lớn chia nhỏ giao hàng theo các thời điểm mùa vụ phù hợp.
Cam kết về hàng rào kỹ thuật (TBT) đối với sản phẩm dệt may trong EVFTA
EVFTA chủ yếu bao gồm các cam kết chung hợp tác, minh bạch hóa trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật (TBT); không có cam kết nào cụ thể liên quan tới các biện pháp TBT có thể ảnh hưởng tới dệt may ngoại trừ:
- Các cam kết về ghi nhãn hàng hóa;
- Hợp tác trong việc công nhận các quy trình đánh giá sự phù hợp của mỗi Bên;
- Hậu kiểm;
- Đối với Việt Nam: cam kết chấp nhận xuất xứ hàng hóa ghi chung “Made in EU” hoặc ghi rõ xuất xứ từng nước trong EU đối với hàng hóa công nghiệp (trong đó có dệt may).
- Như vậy, về cơ bản, khi EVFTA có hiệu lực, EU và Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục chủ động trong việc áp dụng các biện pháp TBT đối với hàng nhập khẩu như hiện tại. Doanh nghiệp xuất khẩu vẫn sẽ phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của bên nhập khẩu như trước đây.
Các nhóm yêu cầu kỹ thuật chủ yếu đối với hàng dệt may của EU hiện nay
- Nhóm yêu cầu về hóa chất trong thành phần sản phẩm (các loại vải, sợi, quần áo và các phụ kiện dệt may đều có chứa nhiều loại hóa chất khác nhau như thuốc nhuộm, thuốc tẩy…);
- Nhóm yêu cầu về quy trình sản xuất (xử lí nguyên liệu và các chất thải độc hại sinh ra từ quá trình trồng nguyên liệu, sản xuất vải, chế biến vải hoàn thiện, các quá trình dệt, nhuộm, in ấn…);
- Nhóm yêu cầu về quy cách đóng gói, bảo quản, ghi nhãn sản phẩm.
Dự kiến tác động của các cam kết thuế quan đối với ngành dệt may Việt Nam
Về xuất khẩu
Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đối với ngành dệt may, dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản không có Hiệp định. Về sản lượng, nhìn chung EVFTA có tác động tích cực tới sản lượng với tốc độ tăng 6% (với ngành dệt) và 14% (với ngành may) vào năm 2030.
Hiện tại, nhóm sản phẩm dệt may được EU cam kết loại bỏ thuế ngay là các sản phẩm mà Việt Nam ít gia công (sản phẩm may mặc) hoặc ít xuất khẩu vào EU (ví dụ nguyên liệu dệt may). Do đó, Việt Nam sẽ ít được hưởng lợi từ nhóm cam kết này. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện đang xuất khẩu sơ xợi nếu tìm kiếm được khách hàng EU sẽ được hưởng lợi từ các cam kết này (bởi mức thuế MFN mà EU đang áp dụng là khoảng 6-8%).
Khi EVFTA có hiệu lực, hàng dệt may Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hàng của Trung Quốc và cạnh tranh ngang bằng về giá với các nước hiện đang được hưởng thuế 0% như Campuchia (tạm thời bị cắt ưu đãi thuế, trở về 12% từ 12/8/2020), Bangladesh… nhưng có lợi thế hơn các nước này về tay nghề cao, chất lượng bảo đảm.
Đối với nhóm sản phẩm EU cam kết loại bỏ thuế theo lộ trình bao gồm phần lớn các sản phẩm may mặc mà Việt Nam đang xuất khẩu sang EU:
- Hiện tại, nhóm này đang được hưởng mức thuế ưu đãi trung bình là 9% theo Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP;
- Sau khi EVFTA có hiệu lực, hàng dệt may đang được hưởng Chương trình Ưu đãi thuế quan phổ cập GSP sẽ tiếp tục được hưởng hết 2 năm sau khi EVFTA có hiệu lực.
Như vậy, trong một vài năm đầu thực hiện EVFTA, phần lớn các sản phẩm may mặc Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu sẽ không được hưởng lợi từ EVFTA ngay. Tuy nhiên, về lâu dài, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ hưởng lợi đáng kể từ EVFTA bởi:
- Các ưu đãi thuế quan theo EVFTA là ổn định (trong khi GSP thì biến động tùy vào quyết định mỗi năm của EU), không phụ thuộc vào tỷ trọng trong tổng nhập khẩu vào EU, và giảm dần xuống 0%;
- Phần lớn các nước xuất khẩu dệt may vào EU hiện nay đều chưa có FTA với EU.
Trong bối cảnh cạnh tranh xuất khẩu hàng may mặc vào EU đang ngày càng gay gắt, EVFTA mở ra cơ hội rất lớn cho xuất khẩu dệt may Việt Nam, với điều kiện doanh nghiệp có thể đáp ứng được các yêu cầu về xuất xứ.
Về nhập khẩu
Việt Nam ít nhập khẩu các sản phẩm dệt may từ EU (trừ một số dòng sản phẩm cao cấp), vì vậy cơ bản các cam kết loại bỏ thuế đối với sản phẩm này sẽ ít có tác động tới cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa.
Trong tổng thể, các doanh nghiệp dệt may có thể được hưởng lợi từ cam kết mở cửa của Việt Nam trong EVFTA đối với lĩnh vực dệt may:
- Với các cam kết loại bỏ thuế nhập khẩu đối với các nguyên phụ liệu từ EU, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội nhập khẩu các nguyên liệu dệt may (đặc biệt là các chất liệu mới mà EU có thể có thế mạnh). Việc sử dụng nguyên phụ liệu dệt may, da giày của EU sẽ góp phần tăng hàm lượng giá trị nội địa của các sản phẩm dệt may mà Việt Nam sản xuất để xuất khẩu sang EU. Từ đó, khả năng được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi khi vào thị trường EU cũng cao hơn;
- Với các cam kết loại bỏ thuế nhập khẩu đối với các loại máy móc, thiết bị ngành may từ EU, doanh nghiệp sẽ có cơ hội nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị từ EU (đặc biệt là các loại sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới) với giá hợp lý, tạo cơ hội phát triển sản xuất, đặc biệt theo hướng hàng chất lượng cao.
Cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường Bắc Âu
Trong năm 2019, Việt Nam xuất khẩu 287,17 triệu USD hàng dệt may, chiếm 1,83% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của khu vực Bắc Âu và Latvia. Do vậy, tiềm năng thị trường còn rất lớn (4/6 thị trường ở khu vực này là thành viên của EU).
Về đối thủ cạnh tranh
Trước khi có EVFTA, dệt may của Việt Nam khó cạnh tranh được với các đối thủ tại khu vực này. Bản thân EU vừa là nước nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới đồng thời lại nước xuất khẩu dệt may đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc. Các quốc gia EU nhập khẩu hàng may mặc từ các nước đang phát triển và tái xuất cho chính các quốc gia khác trong khối EU. Chính vì thế, hàng dệt may của các nước EU xuất khẩu nội khối chiếm hơn 40% tổng nhập khẩu của thị trường này.
Trong nhóm các nước đang phát triển xuất khẩu vào EU, riêng Trung Quốc đã chiếm gần 20% thị phần. Các nước khác như Bangladesh, Campuchia, Pakistan đều có lợi thế hơn Việt Nam về thuế. Bangladesh và Campuchia được miễn thuế theo chương trình EBA (tất cả các mặt hàng trừ vũ khí), và Pakistan được hưởng GSP+, trong khi Việt Nam chỉ được hưởng GSP thông thường ở mức 9,6%. Do vậy, khi chưa có EVFTA, hàng dệt may của Việt Nam rất khó cạnh tranh về giá so với các đối thủ khác nên thị phần hàng dệt may của Việt Nam tại khu vực này còn khiêm tốn.
EVFTA sẽ mang lại cơ hội lớn cho ngành dệt may Việt Nam khi lợi thế cạnh tranh về thuế của các đối thủ cạnh tranh không còn nữa. Ngoài ra, Campuchia sẽ bị loại khỏi chương trình ưu đãi thuế từ ngày 12/8/2020 do vi phạm một số nguyên tắc theo qui định của EU. Thuế hàng dệt may của Campuchia sẽ quay về 12%. Đây sẽ là cơ hội lớn cho Việt Nam tăng thị phần hàng dệt may tại khu vực này.
Về thị hiếu tiêu dùng
Các nước trong khu vực này với đặc điểm là dân số ít, đơn hàng nhỏ, nhưng thu nhập cao, đầu tư khá nhiều thu nhập vào các sản phẩm dệt may như quần áo, chăn, ga, rèm cửa, đồ trang trí bằng chất liệu dệt may.
Đặc trưng của thị trường dệt may khu vực Bắc Âu là sự thay đổi theo mùa của khí hậu. Khí hậu thay đổi ảnh hưởng đến xu hướng thời trang và trang trí nhà cửa. Thị trường may mặc cũng thay đổi nhanh chóng theo xu hướng thời trang.
Mặc dù thời tiết rất lạnh vào mùa đông và thường kéo dài, mùa thu và mùa xuân thời tiết vẫn còn lạnh, và chỉ ấm vào mùa hè, người dân Bắc Âu vẫn ưa thích các hoạt động ngoài trời. Do vậy, họ cần nhiều quần áo mặc ấm, cũng như quần áo cho các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí ngoài trời. Tuy nhiên, khi vào trong nhà, hệ thống sưởi làm cho không khí trong nhà nóng ấm, nên mọi người sẽ cần thay đổi quần áo cho phù hợp.
Do vậy, có thể nói, các nước Bắc Âu tiêu thụ rất nhiều hàng dệt may, phong phú, đa dạng về chủng loại.
Ngoài ra, tuy dân số ít, thị trường tiêu thụ nội địa nhỏ, nhưng các nước Bắc Âu, đặc biệt là Thụy Điển và Đan Mạch có những nhà phân phối sản phẩm lớn, có thương hiệu toàn cầu nên ngoài việc cung cấp cho thị trường nội địa, họ còn nhập khẩu hàng dệt may từ các nước khác cho hệ thống của họ không chỉ ở châu Âu mà trên toàn thế giới.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển



