Tin tức

Liên kết vùng để biến xuất nhập khẩu thành ngành dịch vụ trọng điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh

Đăng ngày: 27/09/19
Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tập trung phát triển ngành công nghiệp xuất nhập khẩu dựa trên mối liên kết khu vực để giảm chi phí, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cả trong tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp hậu cần trong nước với các đối thủ nước ngoài còn kém
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp hậu cần trong nước với các đối thủ nước ngoài còn kém.

Từ kết quả khảo sát về tình trạng của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thạc sĩ Bùi Thị Bích Liên, Viện Nghiên cứu và Phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam (VLI), đã chỉ ra sáu điểm yếu của các doanh nghiệp XNK. Thứ nhất, chi phí hậu cần khá cao theo đánh giá của các doanh nghiệp. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, chi phí khoảng 20,9% cho 12 sản phẩm chủ chốt của Việt Nam, và theo thống kê của VLI, con số này là khoảng 14,5 - 18%. Theo Bà Liên, nguyên nhân là do phí nội địa cao như phí cầu đường, BOT và vận tải nội địa; phí vận chuyển không liên quan và phụ phí; và phí cảng không nhất quán, phí ICD và kho. Thứ hai, liên quan đến phương tiện giao thông, vận tải đường bộ vẫn là xương sống, trong khi máy bay chuyên dụng không có sẵn trong vận tải hàng không, và đường thủy bị hạn chế và chưa được đầu tư thích đáng. Thứ ba, mối liên kết kém, vì 80-90% doanh nghiệp có vốn pháp định chỉ 1,5-2 tỷ đồng, gây ra tình trạng cung cấp dịch vụ bị phân mảnh. Hoạt động trao đổi thông tin hạn chế giữa các doanh nghiệp và thiếu cung cấp dịch vụ tích hợp cho khách hàng dẫn đến khả năng cạnh tranh kém với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài ra, cạnh tranh không lành mạnh về giá cả và hoa hồng cũng làm tăng chi phí XNK của Việt Nam.

Một số hạn chế khác bao gồm nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng; dịch vụ kém do thông tin không đầy đủ về doanh nghiệp, quy trình không được chuẩn hóa và giao hàng chậm. Hơn nữa, ứng dụng công nghệ thông tin đang ở giai đoạn đầu, trong khi phần mềm mới được áp dụng và các phần mềm hiện đại như AI, robot hay điện toán đám mây vẫn chưa phổ biến.

Do những hạn chế này, các doanh nghiệp XNK phải đối mặt với nhiều thách thức. Đặc biệt, từ khách hàng, tỷ lệ thuê ngoài rất thấp, khoảng 30-40%, trong khi ở các nước khác, tỷ lệ này là khoảng 60-70%. Khảo sát của VLI về các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ XNK cũng cho thấy chi phí cao là lý do hàng đầu để các doanh nghiệp tự làm hậu cần thay vì thuê ngoài (72,2%). Do đó, chi phí là rào cản lớn nhất cho sự phát triển của dịch vụ XNK của Việt Nam.

Theo Bà Liên, khó khăn của các doanh nghiệp hậu cần cũng đến từ các yếu tố vĩ mô. Cụ thể, phát triển cơ sở hạ tầng đã không theo kịp với phát triển hàng hóa và XNK. "Đường cao tốc hiện tại không thể được gọi là đường cao tốc vì kẹt xe thường xuyên", bà Liên nói. Ngoài ra, quá nhiều phí BOT và phí đường bộ là một vấn đề. Ví dụ, có 9 trạm thu phí BOT từ Buôn Ma Thuột đến Thành phố Hồ Chí Minh, gây ra sự gia tăng chi phí của các doanh nghiệp XNK.

Làm cho XNK trở thành một ngành dịch vụ quan trọng
Để phát triển dịch vụ XNK, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phê duyệt Đề án Phát triển xuất nhập khẩu tại thành phố đến năm 2025. Nguyễn Ngọc Hoa, Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết với đề án này, TP. Hồ Chí Minh dự kiến ​​sẽ tăng mức đóng góp của dịch vụ XNK lên 8% -10% GDP, tăng 15% -20%. Đồng thời, hình thành một dịch vụ XNK chuyên nghiệp sẽ tăng tỷ lệ dịch vụ XNK gia công lên 50% -60%, giảm chi phí XNK của Việt Nam xuống 16% GDP vào năm 2025.

Theo đề cương đã được phê duyệt, đề án có 3 nhiệm vụ cốt lõi. Đầu tiên, hoạch định chiến lược phát triển XNK của Thành phố Hồ Chí Minh dựa trên mối liên kết khu vực. Đó là sự liên kết của cơ sở hạ tầng giao thông (cầu, cảng, kho, bãi) giữa thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông-Tây Nam: Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, để hình thành một chuỗi liên kết, liên kết các vùng nguyên liệu với các nhà máy sản xuất và thị trường.

Thứ hai, về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xác định nhu cầu, đề xuất vị trí và quy mô của 3 trung tâm XNK theo định hướng nêu trong Quyết định số 1012 / QĐ-TOT ngày 03/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt phát triển hệ thống trung tâm hậu cần toàn quốc lập kế hoạch đến năm 2020. 3 trung tâm này sẽ đáp ứng hai yêu cầu: trung chuyển, lưu trữ, cung cấp hàng hóa cho chuỗi phân phối trong nội thành (siêu thị, cửa hàng bán lẻ) và trung chuyển và phân phối hàng hóa xuất nhập khẩu từ thành phố Hồ Chí Minh đến các tỉnh, thành phố qua cửa ngõ thành phố.

Thứ ba, liên quan đến dịch vụ XNK, nâng cao tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng dịch vụ XNK thuê ngoài, cụ thể là các doanh nghiệp sản xuất chỉ tập trung vào sản xuất, và việc vận chuyển và giao hàng sẽ được thực hiện bởi các doanh nghiệp dịch vụ XNK. Chuyên môn hóa sẽ giúp giảm chi phí XNK, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cả trong tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.

HQ Online

Bản tin khác