Khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như ngày hôm nay không thể không nhắc đến sự phát triển mạnh mẽ của chuỗi cung ứng toàn cầu được thiết lập và duy trì trong suốt hai thập kỷ vừa qua.
Yếu tố chính và quan trọng nhất là sự kết hợp giữa hoạt động sản xuất, giao lưu kinh tế trong nước và xuyên biên giới. Các nhu cầu của con người được đáp ứng đa dạng cộng với sự vận hành các thành phần trong nền kinh tế thắt chặt.
KHỦNG HOẢNG CHUỖI CUNG ỨNG 2021
Nhưng khi thế giới trải qua hai năm gồng mình vì đại dịch Covid, mọi thứ đã bị xáo trộn, từ cuộc sống, cách suy nghĩ của con người, nền kinh tế bị chững lại vì các quốc gia đóng cửa, không giao thương với nước ngoài. Dẫn đến mô hình chuỗi cung ứng tưởng chừng như hoàn hảo đã bị đứt gãy và kéo theo các cuộc khủng hoảng diễn ra trên quy mô rộng lớn.
NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG GÂY ẢNH HƯỞNG ĐẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG CHUỖI CUNG ỨNG
3 yếu tố được xem là nền tảng để đẩy mạnh cuộc khủng hoảng là đại dịch, biến đổi khí hậu và chính trị.
Dịch bệnh
Covid là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu: nhà máy đóng cửa, sản xuất ngưng trệ, đóng cửa biên giới và đẩy công nhân ra khỏi lực lượng lao động. Và thực hiện chính sách Zero-covid 19 là mối đe dọa chuỗi cung ứng toàn cầu, sau khi các nước lên kế hoạch tiêm chủng và các chuyên gia nhận định các hạn chế và đóng cửa biên giới là biện pháp ứng phó quá tốn kém đối với các đợt bùng phát.
Biến đổi khí hậu và khủng hoảng năng lượng
Rủi ro khí hậu có khả năng gia tăng, do thời tiết khắc nghiệt thường xuyên hơn và quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo vốn thiếu sản lượng dự phòng của nhiên liệu hóa thạch. Thị trường dầu mỏ là toàn cầu: Nguồn cung ở một nơi có thể đáp ứng nhu cầu ở nơi khác. Trong khi giá dầu có thể thay đổi, nguồn cung hầu như không bao giờ biến mất nhờ năng lực dự phòng của OPEC, hàng dự trữ riêng và nguồn dự trữ khẩn cấp do chính phủ duy trì. Mặc dù ít biến động hơn dầu mỏ, khí tự nhiên vẫn có thể được lưu trữ và ngày càng được xuất khẩu ở dạng lỏng.
Địa chính trị
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đã đưa các đàm phán thương mại có nguy cơ sụp đổ. Thực tế, Mỹ Trung và Châu Âu đều đeo đuổi khả năng tự cung cấp trong các lĩnh vực chính như chất bán dẫn và pin. Ngoài ra các rào cản còn đến từ việc mức thuế được áp đối với hàng nhập khẩu carbon cao, trong khi đó việc cấm nhập khẩu tùy tiện các loại hàng hóa là một phần công cụ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Tác động của rào cản thương mại lên nền kinh tế: khi các dịch vụ tài chính được kết hợp với nhau và cho vay ở mức lãi suất siêu thấp sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu vượt mức an toàn, thêm vào đó là các rào cản thương mại ngày càng gia tăng sẽ làm thị trường bắt đầu sụp đổ.
Các hậu quả thế giới phải nhận lấy từ cuộc khủng hoảng này là gì?
HỆ QUẢ THẾ GIỚI PHẢI GÁNH CHỊU
Đe dọa, phá vỡ thành tựu của quá trình toàn cầu hóa
Từ tháng 9 đến nay, nguồn cung thiếu hụt đã khiến giá khí đốt, than đá, dầu mỏ tăng mạnh dẫn đến sự căng thẳng trong cung ứng điện của nhiều nước và khu vực. Cuộc khủng hoảng năng lượng đang lan rộng ra gần 30 quốc gia và khu vực trên toàn cầu. Người dân Singapore, các nước EU cũng cảm nhận được sức ép của giá điện và dầu thô leo thang, từ tháng 10 - 12 hóa đơn tiền điện của các hộ gia đình trung bình tăng 3,2% so với trước đó, lên mức cao nhất trong những năm gần đây. Trong khi đó, giá dầu thô phục hồi tăng mạnh về mức trước dịch bệnh khiến cho giá dầu ở Singapore cũng gia tăng tương ứng.
Sự việc càng trở nên trầm trọng khi sản xuất toàn cầu có mối quan hệ vô cùng khăng khít giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Các doanh nghiệp đã áp dụng hình thức thuê ngoài và gia công thông qua mô hình tách thiết kế ra khỏi sản xuất. Khi các công ty liên kết với nhiều nhà thầu cung cấp ở xa, nếu sự cố xảy ra sẽ khó có thể kiểm soát.
Kéo chậm đà phục hồi kinh tế
Hiện dịch bệnh vẫn đang kéo dài, các doanh nghiệp toàn cầu đang đối diện với một loạt khó khăn như thiếu hụt nguyên liệu, giá cả leo thang, khan hiếm nguồn lực,... Các nhân tố tạo ra sự đứt gãy chuỗi cung ứng là rất đa dạng, vì mức độ toàn cầu hóa khiến cho các quốc gia phụ thuộc vào nhau. Hơn nữa, tình hình dịch bệnh tại từng nước cũng khác nhau, do đó vấn đề giải quyết chuỗi cung ứng càng khó hơn.
Các chuyên gia dự báo, sự khủng hoảng này có thể kéo dài đến nửa cuối năm 2022, khi các biện pháp chống dịch chưa đạt được kết quả hàng hóa tắc nghẽn và để giải phóng được những lô hàng hóa tồn đọng sẽ mất rất nhiều thời gian. Thêm vào đó là chi phí lao động tăng, giá năng lượng leo thang, các doanh nghiệp thực phẩm trên toàn cầu bắt đầu nâng cao giá bán hàng hóa khiến cho các nước đối diện với sức ép lạm phát gia tăng.
Dù muốn hay không, mọi việc vẫn diễn ra, cũng giống như cuộc khủng hoảng tài chính thúc đẩy các ngân hàng và cơ quan quản lý ưu tiên khả năng phục hồi hơn là hiệu quả, cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng có thể sẽ dẫn đến việc mạng lưới sản xuất có khả năng chống chọi tốt hơn với những điều bất ngờ nhưng ít có khả năng nhanh chóng làm hài lòng người tiêu dùng với nhiều lựa chọn hơn và với chi phí thấp hơn bao giờ hết như trước đây.
Quản lý vận tải và chuỗi cung ứng là điều các doanh nghiệp cần nâng cao để giảm thiểu các hậu quả có thể xảy ra, và cho dù chọn giải pháp tự thực hiện, các công ty và tập đoàn không thể không có hiểu biết tường tận về quản trị logistics – một phần không thể thiếu của quản trị chuỗi cung ứng.