EVFTA - Cam kết trong ngành cà phê và cơ hội tại thị trường Bắc Âu
Đăng ngày: 09/09/20
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới. EU là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất trên thế giới, với kim ngạch nhập khẩu từ các nước ngoại khối khoảng 10 tỷ USD/năm.

Ảnh: Internet
Thực tế, hiện xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU chiếm trên 8,5% tổng nhập khẩu của EU và chiếm gần 40% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ mức thuế 7,5-9% ngay lập tức cho cà phê nhân (rang, rang xay) và 9-11,5% trong vòng 3 năm cho một số chế phẩm từ hạt cà phê bao gồm cà phê hòa tan, tinh chất chứa cà phê.
Sau khi EVFTA có hiệu lực, cà phê Robusta của Việt Nam có tiềm năng và lợi thế rất lớn tại thị trường EU, đặc biệt là các sản phẩm chế biến.
Tình hình thương mại cà phê của Việt Nam năm 2019
- Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam với thế giới năm 2019: 2,85 tỷ USD;
- Thị phần xuất khẩu cà phê của Việt Nam trên thế giới: 8,3%, chỉ đứng sau Brazil;
- Tốc độ tăng trưởng 2014-2019: -1%;
- Các thị trường xuất khẩu cà phê chính của Việt Nam: EU, Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Anh;
- Xuất khẩu cà phê sang EU năm 2019: 1,16 tỷ USD;
- Xuất khẩu cà sang các nước Bắc Âu và Latvia năm 2019: 8,64 triệu USD.
Cam kết về thuế quan của EU đối với cà phê Việt Nam
- Thuế suất cơ bản EU hiện áp cho cà phê Việt Nam: 7,5-11,5%
- Xóa bỏ ngay 100% số dòng thuế mặt hàng này khi Hiệp định có hiệu lực.
Quy tắc xuất xứ đối với cà phê trong EVFTA
- Để được hưởng các ưu đãi thuế quan theo EVFTA, cà phê phải có xuất xứ thuần túy, tức là được trồng tại Việt Nam;
- Đối với các chế phẩm từ cà phê: không tái sản xuất lại từ các sản phẩm không xuất xứ trong cùng nhóm với sản phẩm đầu ra; và trọng lượng đường sử dụng trong sản phẩm không được vượt quá 40% trọng lượng sản phẩm.
Cam kết về TBT/SPS
EVFTA chủ yếu bao gồm các cam kết hợp tác, minh bạch hóa, công nhận lẫn nhau, hậu kiểm trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật (TBT), vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS).
EVFTA không có cam kết nào cụ thể liên quan tới các biện pháp TBT, SPS đối với thực phẩm, đồ uống ngoại trừ các cam kết về ghi nhãn hàng hóa (áp dụng chung cho mọi loại sản phẩm, rất quan trọng với nhóm thực phẩm, đồ uống).
Vì vậy, về cơ bản:
- EU và Việt Nam sẽ tiếp tục giữ quyền chủ động trong việc ban hành và áp dụng các biện pháp TBT, SPS (ngoại trừ một số ràng buộc về quy định TBT đối với việc ghi nhãn);
- Có nhiều cơ hội hơn trong việc công nhận tương đương giữa EU và Việt Nam đối với các biện pháp SPS của mỗi bên;
- Việc ban hành và thực thi các biện pháp TBT sẽ được minh bạch hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, còn một số nội dung mới tạo thuận lợi thương mại cho hai bên:
- Danh sách doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu: mỗi bên thiết lập danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản, thực phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm kèm theo mã hàng hóa xuất khẩu để gửi cho bên kia;
- Công nhận tương đương: rút ngắn thời hạn xem xét công nhận tương đương là 3 tháng so với quy định của WTO (6 tháng) kể từ thời điểm nhận được đề nghị;
- Quy định linh hoạt đối với biện pháp SPS do EU ban hành mà Việt Nam khó đáp ứng: Việt Nam được chọn 1 trong 3 giải pháp sau nếu gặp khó khăn trong việc đáp ứng một biện pháp SPS của EU: (i) EU dành cho Việt Nam một khoảng thời gian chuyển đổi để tuân thủ biện pháp SPS này; (ii) Việt Nam đề xuất một biện pháp SPS tương đương và đề nghị EU xem xét công nhận; và (iii) EU dành hỗ trợ kỹ thuật để giúp Việt Nam dần đáp ứng được biện pháp SPS này.
Cam kết về chỉ dẫn địa lý
EU công nhận và bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, trong đó có cà phê Buôn Mê Thuột.
Cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường Bắc Âu
Người dân Bắc Âu uống cà phê nhiều nhất thế giới. Trong đó, Phần Lan là quốc gia có tỷ lệ tiêu thụ cà phê bình quân đầu người cao nhất thế giới, khoảng 12 kg mỗi năm. Tiếp theo, Na Uy đứng thứ hai với mức ước tính 9,9 kg mỗi năm/đầu người. Đan Mạch và Thụy Điển xếp thứ tư và thứ sáu trong bảng xếp hạng này, với lần lượt 8,7 kg và 8,2 kg.
Tuy nhiên, các nước Bắc Âu chủ yếu nhập khẩu hạt cà phê Arabica do có xu hướng hướng đến cà phê chất lượng cao và chỉ nhập khẩu lượng nhỏ cà phê Robusta dùng trong chế biến. Trong khi đó, Việt Nam lại chủ yếu xuất khẩu cà phê Robusta, chiếm khoảng 95% lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Mặc dù vậy, theo đánh giá của Trung tâm Thương mại Quốc tế ITC, cà phê là mặt hàng tiềm năng của Việt Nam tại khu vực Bắc Âu.
Cụ thể, Thụy Điển nhập khẩu 331,5 triệu USD cà phê năm 2019, nhưng nhập khẩu từ Việt Nam chỉ khoảng 6 triệu USD. Thuế mặt hàng cà phê là 0%. Do vậy, sau khi tính toán, tiềm năng xuất khẩu cà phê vào thị trường này là 196 triệu USD, tức là vẫn còn 190 triệu USD chưa được khai thác.
Phần Lan nhập khẩu 213 triệu USD cà phê, nhưng nhập khẩu từ Việt Nam chỉ 2 triệu USD, tiềm năng xuất khẩu được tính khoảng 47,6 triệu USD cho cà phê Việt Nam, như vậy vẫn còn khoảng 45 triệu USD cà phê chưa được khai thác.
Tương tự, Đan Mạch và Na Uy vẫn còn nhiều dư địa chưa được khai thác. Mặc dù Na Uy và Iceland không là thành viên của EU, nhưng là thành viên của EEA. Do vậy, khai thác được thị trường Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch đồng nghĩa với việc khai thác được cả khu vực do Na Uy và Iceland nhập khẩu từ các nước thành viên EU cũng được hưởng thuế 0%.
Ngoài ra, theo EVFTA, 39 sản phẩm của Việt Nam được EU công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý, trong đó có cà phê Buôn Mê Thuột. Ngoài việc phát triển thị trường cà phê truyền thống, doanh nghiệp có thể cân nhắc phát triển thương hiệu cà phê đặc sản tại khu vực này.
Tin: Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển



