Doanh nghiệp logistics: Số lượng lớn nhưng thị phần nhỏ
Đăng ngày: 03/01/20
Hiện tại có hơn 4.000 công ty vận tải và hậu cần hoạt động tại Việt Nam, cung cấp các dịch vụ đa dạng và toàn diện từ quá trình vận chuyển hàng hóa đến thuế hoặc thanh toán; trong đó 88% là doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 2% là doanh nghiệp nước ngoài, tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Khả năng cạnh tranh thấp
Trên thực tế, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vận tải và hậu cần trong nước vẫn còn thấp so với các doanh nghiệp FDI. Số lượng doanh nghiệp FDI nhỏ nhưng chiếm 70% - 80% thị phần. Các dịch vụ chính mà doanh nghiệp hậu cần Việt Nam cung cấp là dịch vụ cơ bản, hoặc dịch vụ riêng lẻ, chủ yếu phụ thuộc vào cạnh tranh về giá. Họ có ít giá trị gia tăng và thường đóng vai trò là nhà thầu phụ hoặc đại lý cho các công ty nước ngoài như dịch vụ kho bãi, vận chuyển hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói, lưu trữ. Có các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ hậu cần, nhưng số lượng không cao và chưa được phát triển.
Theo báo cáo năm 2018 của Ngân hàng Thế giới, dịch vụ hậu cần Việt Nam đứng thứ 39, tăng 25 bậc so với bảng xếp hạng năm 2016, với chỉ số hiệu quả hậu cần (LPI) được cải thiện đáng kể ở tất cả các chỉ số, đặc biệt là nhóm năng lực và chất lượng dịch vụ, từ 2,88 điểm tới 3,4 điểm. Kết quả này xuất phát từ những nỗ lực đơn giản hóa thủ tục hải quan, áp dụng công nghệ thông tin và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của Báo cáo Việt Nam, hiện nay ngành vận tải và hậu cần tại Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn, đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Hiện nay, cơ sở hạ tầng thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông cũng như cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin vẫn còn yếu và không nhất quán, dẫn đến các dịch vụ vận tải đa phương thức gặp nhiều khó khăn. Chi phí hậu cần của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác. Các cơ sở hậu cần với hệ thống kho bãi, cầu cảng và ngã tư chỉ có thể đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu, nhưng không đáp ứng nhu cầu trong nước, đặc biệt là nhu cầu hậu cần điện tử.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực hậu cần của Việt Nam không chỉ thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ cao như quản lý, chuyên gia hậu cần giỏi có chuyên môn về luật quốc tế, có khả năng ứng dụng và triển khai trong doanh nghiệp. Trong số các doanh nghiệp trong nước, có tới 93-95% công nhân không được đào tạo về hậu cần, chủ yếu làm dịch vụ trong các chuỗi cung ứng nhỏ như giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ cũng như lợi nhuận của công ty.
Mặc dù Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách đột phá để hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển ngành vận tải và hậu cần, nhưng 54,55% doanh nghiệp vẫn cho rằng còn nhiều thiếu sót, như chính sách về xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan vẫn còn khá chặt chẽ. , gây ra nhiều khó khăn, nghị định hướng dẫn không rõ ràng mang lại cho các doanh nghiệp mới những phiền toái đáng kể, làm chậm tốc độ phát triển của ngành công nghiệp hậu cần.
Tiềm năng tăng trưởng mạnh
Ngành vận tải và hậu cần của Việt Nam có rất nhiều tiềm năng phát triển, tham gia sâu hơn vào các trung tâm giao dịch vận tải của thế giới do các chính sách của Chính phủ tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu, nhiều hiệp định thương mại đã được ký kết, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thương mại điện tử và công nghiệp tự động hóa và cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện.
Ngoài ra, các ngành vận tải và hậu cần cũng có nhiều cơ hội hơn từ cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, khi nhiều công ty Trung Quốc chuyển các nhà máy sang Việt Nam và Đông Nam Á. Theo đó, gần 91% doanh nghiệp trong khảo sát của Báo cáo Việt Nam cho biết, tăng trưởng của ngành trong năm 2020 sẽ là hơn 10%.
Do đó, theo các chuyên gia, doanh nghiệp trong ngành khảo sát Báo cáo Việt Nam, có ba giải pháp cần ưu tiên để phát triển ngành: Hoàn thiện chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động hậu cần, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, cắt giảm cơ sở hạ tầng phí và lệ phí; Cải thiện cơ sở hạ tầng: giao thông, viễn thông và công nghệ thông tin; Mở rộng mạng lưới đào tạo nguồn nhân lực trong ngành hậu cần.
Ngoài ra, các doanh nghiệp vận tải và hậu cần cần các giải pháp để hiện đại hóa phương thức hoạt động, nâng cấp chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực, năng lực tài chính. Sự phát triển của các doanh nghiệp sẽ góp phần xây dựng và nâng cao uy tín thương hiệu, được coi là cầu nối giúp các doanh nghiệp đến gần hơn với các đối tác và khách hàng trong và ngoài nước.
Theo vccinews